• SHTT

    QUẢNG CÁO

    • Tư Vấn Luật Tư Vấn Luật Tư Vấn Luật
    • Phân biệt nhãn hiệu hàng hóa và tên thương mại

      Căn cứ pháp lý: Luật sở hữu trí tuệ 2005; Văn bản hợp nhất số 19/VBHN-VPQH Luật sở hữu trí tuệ

                Nhãn hiệu và Tên thương mại là hai đối tượng của sở hữu công nghiệp hoặc rộng hơn là của sở hữu trí tuệ. Nhiều người vẫn nhầm lẫn Tên thương mại và Nhãn hiệu hàng hóa là một do chúng có những đặc điểm giống nhau, tuy nhiên về bản chất thì chúng hoàn toàn khác nhau. Vậy Tên thương mại là gì? Nhãn hiệu hàng hóa là gì? Và làm thế nào để phân biệt được Tên thương mại và Nhãn hiệu hàng hóa? Dưới đây là những tiêu chí so sánh hai đối tượng trên.

      Tiêu chí

      Nhãn hiệu

      Tên thương mại

      Khái niệm

      Nhãn hiệu là dấu hiệu dùng để phân biệt hàng hóa, dịch vụ của các tổ chức, cá nhân khác nhau.(khoản 16 Điều 4 Luật SHTT)

      Tên thương mại là tên gọi của tổ chức, cá nhân dùng trong hoạt động kinh doanh để phân biệt chủ thể kinh doanh mang tên gọi đó với chủ thể kinh doanh khác trong cùng lĩnh vực và khu vực kinh doanh.(Khoản 21 Điều 4 Luật SHTT)

      Đối tượng

      Hàng hóa và dịch vụ

      Chủ thể kinh doanh

      Chức năng

      Để phân biệt hàng hóa, dịch vụ của tổ chức, cá nhân là chủ sở hữu nhãn hiệu với hàng hóa, dịch vụ của tổ chức khác

      Để phân biệt chủ thể kinh doanh mang tên gọi đó với chủ thể kinh doanh khác trong cùng lĩnh vực và khu vực kinh doanh.

      Điều kiện bảo hộ

      Được bảo hộ khi thỏa mãn các quy định tại Điều 72, 73 và 74 Luật SHTT.

       Nhãn hiệu được bảo hộ nếu đáp ứng các điều kiện sau đây:

      1. Là dấu hiệu nhìn thấy được dưới dạng chữ cái, từ ngữ, hình vẽ, hình ảnh, kể cả hình ba chiều hoặc sự kết hợp các yếu tố đó, được thể hiện bằng một hoặc nhiều mầu sắc.

      2. Có khả năng phân biệt hàng hóa, dịch vụ của chủ sở hữu nhãn hiệu với hàng hóa, dịch vụ của chủ thể khác.

      3. Không là các dấu hiệu không được bảo hộ dưới danh nghĩa là nhãn hiệu

       

       

       

      Được bảo hộ khi thỏa mãn các quy định tại Điều 76, Điều 77 và Điều 78 Luật SHTT.

      Tên thương mại được bảo hộ nếu đáp ứng được các điều kiện sau đây:

      1. Có khả năng phân biệt giữa các chủ thể kinh doanh trong cùng lĩnh vực và khu vực kinh doanh

      2. Không là đối tượng không được bảo hộ dưới dạng tên thương mại

      3. Đáp ứng được các điều kiện về khả năng phân biệt theo Điều 78 Luật SHTT đó là có chứa thành phần tên riêng; không trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với tên thương mại mà người khác đã sử dụng trước  trong cùng lĩnh vực và khu vực kinh doanh; không trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với nhãn hiệu của người khác hoặc với chỉ dẫn địa lý đã được bảo hộ trước ngày tên thương mại đó được sử dụng.

      Căn cứ xác lập quyền

       Đối với nhãn hiệu thông thường quyền sở hữu được xác lập trên cơ sở quyết định cấp văn bằng bảo hộ của cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo thủ tục đăng ký quy định tại Luật này hoặc công nhận đăng ký quốc tế theo quy định của điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên; đối với nhãn hiệu nổi tiếng, quyền sở hữu được xác lập trên cơ sở sử dụng, không phụ thuộc vào thủ tục đăng ký;

      Tên thương mại được xác lập trên cơ sở sử dụng hợp pháp tên thương mại đó;

      Chủ thể có quyền đăng ký

      - cá nhân

      - tổ chức được thành lập hợp pháp

      - các cá nhân tổ chức không thuộc các trường hợp bị cấm thành lập doanh nghiệp

      Chủ thể có quyền sử dụng

      - cá nhân

      - tổ chức

      - thành viên của tổ chức (đối với nhãn hiệu tập thể)

      Các chủ thể kinh doanh

      Thời hạn bảo hộ

       Giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu có hiệu lực từ ngày cấp đến hết mười năm kể từ ngày nộp đơn, có thể gia hạn nhiều lần liên tiếp, mỗi lần mười năm.( khoản 6 điều 93 Luật SHTT)

      Không có thời hạn bảo hộ

      Giới hạn khi chuyển giao quyền sở hữu công nghiệp

       -Quyền đối với nhãn hiệu chỉ được chuyển nhượng cho tổ chức, cá nhân đáp ứng các điều kiện đối với người có quyền đăng ký nhãn hiệu đó. (Khoản 5 Điều 139 Luật SHTT)

      - Đối với quyền sử dụng nhãn hiệu tập thể:  Quyền sử dụng nhãn hiệu tập thể không được chuyển giao cho tổ chức, cá nhân không phải là thành viên của chủ sở hữu nhãn hiệu tập thể đó. (Khoản 2 Điều 142 Luật SHTT)

      - Quyền đối với tên thương mại chỉ được chuyển nhượng cùng với việc chuyển nhượng toàn bộ cơ sở kinh doanh và hoạt động kinh doanh dưới tên thương mại đó. (Khoản 3 Điều 139 Luật SHTT)

      - Quyền sử dụng chỉ dẫn địa lý, tên thương mại không được chuyển giao.(khoản 1 Điều 142 Luật SHTT)

      Hành vi xâm phạm

      Các hành vi sau đây được thực hiện mà không được phép của chủ sở hữu nhãn hiệu thì bị coi là xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu:

      a) Sử dụng dấu hiệu trùng với nhãn hiệu được bảo hộ cho hàng hóa, dịch vụ trùng với hàng hóa, dịch vụ thuộc danh mục đăng ký kèm theo nhãn hiệu đó;

      b) Sử dụng dấu hiệu trùng với nhãn hiệu được bảo hộ cho hàng hóa, dịch vụ tương tự hoặc liên quan tới hàng hóa, dịch vụ thuộc danh mục đăng ký kèm theo nhãn hiệu đó, nếu việc sử dụng có khả năng gây nhầm lẫn về nguồn gốc hàng hóa, dịch vụ;

      c) Sử dụng dấu hiệu tương tự với nhãn hiệu được bảo hộ cho hàng hóa, dịch vụ trùng, tương tự hoặc liên quan tới hàng hóa, dịch vụ thuộc danh mục đăng ký kèm theo nhãn hiệu đó, nếu việc sử dụng có khả năng gây nhầm lẫn về nguồn gốc hàng hóa, dịch vụ;

      d) Sử dụng dấu hiệu trùng hoặc tương tự với nhãn hiệu nổi tiếng hoặc dấu hiệu dưới dạng dịch nghĩa, phiên âm từ nhãn hiệu nổi tiếng cho hàng hóa, dịch vụ bất kỳ, kể cả hàng hóa, dịch vụ không trùng, không tương tự và không liên quan tới hàng hóa, dịch vụ thuộc danh mục hàng hóa, dịch vụ mang nhãn hiệu nổi tiếng, nếu việc sử dụng có khả năng gây nhầm lẫn về nguồn gốc hàng hóa hoặc gây ấn tượng sai lệch về mối quan hệ giữa người sử dụng dấu hiệu đó với chủ sở hữu nhãn hiệu nổi tiếng. (Khoản 1 Điều 129 Luật SHTT)

       

       Mọi hành vi sử dụng chỉ dẫn thương mại trùng hoặc tương tự với tên thương mại của người khác đã được sử dụng trước cho cùng loại sản phẩm, dịch vụ hoặc cho sản phẩm, dịch vụ tương tự, gây nhầm lẫn về chủ thể kinh doanh, cơ sở kinh doanh, hoạt động kinh doanh dưới tên thương mại đó đều bị coi là xâm phạm quyền đối với tên thương mại. (Khoản 2 Điều 129 Luật SHTT)


       

    • SHTT cũ hơn